“NGHỆ THUẬT” GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT
I. Nêu vấn
đề:
Sự nghiệp giáo dục đào tạo hiện đang được toàn Đảng toàn dân quan
tâm.Vai trò của người giáo viên trong nhà trường gắn liền với hai nhiệm vụ: Vừa
giảng dạy vừa làm công tác giáo dục. Mục đích là đào tạo ra những học
sinh vừa có kiến thức văn hóa, vừa có nhân cách làm người.
Hiện nay nhiều trường luôn lấy thành thích
và chạy đua theo thành tích học tập mà quên đi nhiệm vụ cao cả của nghề dạy học
là giáo dục nhân cách, đạo đức cho học sinh, từng bước hoàn thiện, từ cái chưa
có thành cái có, giáo dục, cảm hóa học sinh hư hỏng, nghịch ngợm thành học sinh
ngoan. Vì vậy nên khi tuyển đầu vào, đặc biệt là cấp THPT, nhiều trường đã cân
nhắc rất kĩ. Thậm chí vì sợ ảnh hưởng thành tích của trường mà nhiều trường đã
phũ phàng khước từ nhiều học sinh học lực kém, hay hạnh kiểm yếu, tạm gọi là
thành phần học sinh “cá biệt”.
Gần đây, trên các phương tiện thông tin báo chí, truyền
hình đã lên tiếng khá nhiều về tình hình học sinh cá biệt( HSCB). Vấn
dề này đã trở thành mối quan ngại của dư luận, nhất là với gia
đình và nhà trường.
HSCB, trường nào cũng có. HSCB không nhiều, song lại là “lực cản”
rất lớn, thậm trí là thế lực “đen” đe dọa, khống chế những nhân tố tích cực dám
đấu tranh bảo vệ lẽ phải ở trong lớp, trong trường.
Giáo dục là khoa
học nhưng cũng là nghệ thuật. Trước những vụ bạo lực học đường liên tiếp
xảy ra gần đây đặt giáo viên và các nhà quản lý giáo dục trước thực tế: làm thế
nào để cảm hóa và giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả là một vấn đề khá
nan giải, phức tạp và hết sức nhạy cảm. Công việc này đã và đang
trở thành một thách thức lớn với toàn xã hội nói chung và đặc biệt
là ngành giáo dục nói riêng, trong đó chủ yếu là nhiệm vụ của các
nhà trường. Vậy, Làm sao để giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả?
Với mong muốn góp phần
vào việc luận giải những vấn đề nói trên, tôi chọn đề tài: “Nghệ thuật giáo
dục học sinh cá biệt trong nhà trường”, vấn đề mà chắc hẳn không
chỉ riêng tôi, mà rất nhiều đồng nghiệp khác quan tâm suy nghĩ là làm
sao học sinh của mình trở thành những con người tốt có ích cho xã hội.
II. Giải quyết vấn đề:
Như chúng ta đã biết, giáo dục học sinh cá biệt là
một nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phức tạp và rất khó thành công trong
một thời gian ngắn. Nó đòi hỏi một quá trình dài lâu, có sự gắn kết, thật sự
trách nhiệm của các giáo viên chủ nhiệm từ cấp dưới đến cấp trên, cùng sự quan
tâm chia sẻ thường xuyên từ phía phụ huynh, gia đình. Để góp phần
làm cho công tác giáo dục HSCB trong nhà trường đạt hiệu quả, sau đây
tôi xin đưa ra một số biện pháp:
1/GVCN khi lớp có học sinh cá biệt(HSCB):
-
Hiểu biết tâm lý lứa tuổi của học sinh mình chủ nhiệm. Cuộc sống nội tâm của
học sinh ở lứa tuổi này còn nhiều mặt dễ biến đổi.
-
Do các quá trình tâm lý chưa ổn định và sự tác động rất lớn của xã hội, hoàn
cảnh sống ....
- Người GVCN phải có tinh thần trách nhiệm cao yêu nghề, yêu thương học sinh và
luôn luôn xác định phương châm: “Vì sự nghiệp trăm năm trồng người”và “Tất
cả vì học sinh thân yêu”.
- Biết sự kiềm chế, bình
tĩnh trong mọi tình huống, kiên định thực hiện thiên chức người kỹ sư tâm hồn.
- Có sự nhạy cảm sư phạm
biết dùng yếu tố tình cảm như một nghệ thuật sư phạm để cảm hóa học sinh cá
biệt.
a) Những điều nên tránh:
- Không cô lập học sinh cá biệt đối với tập thể.
- Không xúc phạm và làm
tổn thương danh dự của học sinh trước tập thể. Một lời nói cũng cần phải thận
trọng.
- Không quá khắc khe xử lý
mạnh tay bằng những hình thức kỷ luật nặng nề, đe dọa, thành kiến không dùng
lời lẽ nặng nề dao to búa lớn, nói như một nhà sư phạm “không cần dùng búa để mổ một con
gà”.
- Không bỏ mặc và phủ nhận những chuyển biến của học sinh
cá biệt. Những thay đổi theo chiều hướng tích cực của học sinh – dù nhỏ cũng
đáng trân trọng và phải ghi nhận.
b) Những điều nên làm:
- Đối với học sinh cá biệt, người GVCN phải biết nhìn
bằng con mắt của tình thương và sự thông cảm thật sự xem học sinh như người
thân của mình, ta nên có cái hiền từ bao dung của người mẹ, người cha cái gần
gũi cảm thông của người anh, người chị, và cái thân thiết của một người bạn.
- Các em học sinh cá biệt tuy học lực yếu nhưng bù lại lại có những
năng khiếu đặc biệt như văn nghệ, thể dục, thể thao, vi tính,… Những khả năng
này, nhà trường có thể phát huy để các em có thể góp sức vào phong trào hoạt
động của nhà trường và từ đó có thể định hướng cho các em theo đúng sở trường…
Giáo dục học sinh cá biệt chỉ có thể “Bớt lời, nới tay” mới hiệu quả.
- Nhiều khi,
các việc làm nhỏ nhặt nhất như lau bảng, giặt khăn, chính các thầy cô cũng phải
tự thân làm. Chính những việc làm giản đơn này sẽ dần dần hình thành ý thức tự
giác trong mỗi em học sinh. Và trong giờ học cũng thế, mỗi khi những em học
sinh này đùa nghịch thì thầy cô không phải dùng gậy gộc hay lời mắng chửi cay
cú mà thay vào đó là lời nói nhỏ nhẹ, tình cảm như những người bạn.
- Có điều kiện tâm tình, gặp
gỡ, trao đổi với các em, với gia đình, người thân của các em ...
- Nhẹ nhàng phân tích những
mặt ưu, khuyết, đúng sai trong nhận thức, suy nghĩ của các em ... Giúp các em
nhận biết những ưu điểm của mình và biết phát huy nó. Không nên nói những câu
phũ phàng. Đại khái như “ở em chẳng có điểm nào tốt cả”, “Người như
em thật chẳng ra gì!”, Hoặc bi đát hơn “cuộc đời em rồi chẳng có ra làm
sao đâu”...
- Giúp học sinh cá biệt khắc phục sửa chữa những sai phạm của mình
và chú ý theo dõi, động viên khích lệ kịp thời. Tôi nghĩ rằng một lời khen học
sinh cá biệt sẽ có tác dụng hơn là một tờ tự kiểm điểm.
- Và điều này thì ai cũng biết: “quá cứng thì dễ gãy, quá mềm thì
khó uốn”. Trong sự nghiệp trồng người thì học sinh cá biệt giống như
cái cây không mộc thẳng. Đối với loại cây này người GVCN phải gia công nhiều
hơn.
- Tóm lại góp phần hình thành nhân cách học sinh – đặc biệt là học
sinh cá biệt – là nhiệm vụ quan trọng của người GVCN đó không chỉ là nhiệm vụ
trong một năm học, một cấp học mà là thiên chức đối với một đời người – một thế
hệ.
2/ Tận dụng hiệu quả các tiết sinh hoạt chủ nhiệm
- Theo qui định, tiết chủ
nhiệm chỉ dành khoảng 15 phút để giáo viên tổng kết tình hình học tập, vệ sinh,
chuyên cần... của lớp; 30 phút còn lại tổ chức cho học sinh sinh hoạt... Mỗi
tiết sinh hoạt chủ nhiệm đều phải có biên bản.
- Giờ sinh hoạt của lớp thường
bắt đầu bằng tóm tắt kết quả học tập và rèn luyện cả lớp trong tuần của ban cán
sự lớp. Thông qua sổ đầu bài, sổ cờ đỏ của đoàn trường, các giáo viên bộ môn,
giáo viên chủ nhiệm nhận xét, đánh giá từng học sinh; nhắc nhở, động viên tinh
thần các em cố gắng hơn.
- Riêng với học sinh lớp
cuối cấp, việc học như thế nào, học khối gì là rất quan trọng, quyết định ngành
nghề tương lai từng học sinh, nên giáo viên chủ nhiệm phải thật sự gắn bó, quan
tâm tới lớp. Từ kết quả học tập, năng khiếu, tính cách của mỗi học sinh, giáo
viên chủ nhiệm góp ý với từng em về việc chọn nghề phù hợp.
- Luôn dạy các em cách học
làm người, cách sống, cách ứng xử với mọi người xung quanh. Có khi kể cho các
em nghe một câu chuyện trong sách, báo, internet mình sưu tầm được để các em tự
rút ra bài học cho mình.
3/ Dùng
tình cảm để cảm hóa các em:
- Tránh đối xử thô bạo, trách móc các em. Hãy tôn trọng
nhân cách của các em. Hãy đem đến cho các em hơi ấm của tình người, để các
em biết người tốt chung quanh ta, nhiều lắm!
- Để hiểu học sinh “cá biệt”, trước hết phải biết chấp nhận
các em vô điều kiện. Luôn đứng về phía các em, quan tâm điều các em nghĩ, bàn
về những đề tài các em thích. Thỉnh thoảng, sử dụng “thuật ngữ” của các em. Đó
là cách mang các em đến gần mình hơn. Khi mối quan hệ đủ thân thiện, khi niềm
tin đủ lớn, người thầy sẽ thuận lợi trong việc uốn nắn hành vi, khai sáng tư
duy, định hướng nhận thức...
- Nên xử lý mềm mỏng, thậm chí dịu ngọt đối với học sinh cá biệt
này, nếu không sẽ không có hiệu quả, có khi gặp phản ứng không tốt ngược trở
lại về phía học sinh. Tuy nhiên cũng có đôi lúc ta cũng phải cứng rắn: chẳng
hạn trong vấn đề xử phạt "mềm nắn, rắn buông".
- Nếu học sinh có thói hư tật xấu phạm lỗi trầm trọng cũng có thể
tùy trường hợp hay tùy đối tượng mà xử lí, tôi không xử lí một cách cứng nhắc.
Dù lỗi lầm lớn nhưng nếu em đó biết nhận lỗi và sửa lỗi thì tôi luôn tạo cho
học sinh đó cơ hội tự làm chủ bản thân, có niềm tin nghị lực để vươn lên. Thế
nhưng đối với những học sinh lỗi vi phạm không đáng kể nhưng lại vi phạm thường
xuyên thì tôi không thể bỏ qua mà xử lí một cách linh động tùy theo từng đối
tượng. Dù các em vi phạm ở mức độ lỗi lớn hay nhỏ tôi cũng xử lí trên cơ sở
giáo dục các em, cụ thể cho em đó biết chuộc lỗi, làm một việc tốt, giao cho em
đó thời gian thử thách.
4/ Kiên trì tạo niềm tin:
- Chúng ta hãy thử hòa mình vào phong cách sống của các
em xem sao? Để điều hành được học sinh “cá biệt”, người thầy phải sắm đủ các
vai. Khi thì nhà mô phạm nghiêm khắc, lúc lại là cái vai cho các em gục đầu
vào. Khi thì nhà tâm lý, lúc lại là bác sĩ trị liệu, khi thì ông trọng tài, lúc
khác lại là người cố vấn... Cứ như thế, kiên trì cho đến khi các em tự nhận ra
tại sao mình phải thay đổi.
-Từ cảm giác cô đã không
chối bỏ mình, không chê mình, luôn khen ngợi, động viên và tặng trái tim ghi
điểm thưởng..., các em dần phát hiện ra giá trị của bản thân, cảm thấy mình hữu
ích và được việc... Thế là tinh thần học tập được nhân lên, tạo ra sự tương tác
và cộng hưởng.
- Giáo viên nên thường xuyên
trò chuyện, quan tâm, gần gũi, nhắc nhở, động viên học sinh học tập, có thái độ
thân thiện với học sinh. Tạo cho học sinh nhìn mình là cảm thấy gần gũi, chứ
không phải gặp mình là sợ la, sợ bị mắng. Như vậy học sinh sẽ có tâm lý bất cần"Thầy
cô kệ thầy cô, ta là ta". Ta phải làm sao tạo cho học sinh có cảm
giác là giáo viên như là một người bạn thân, bạn tâm tình, sẵn sàng lắng nghe ý
kiến của mình, khi mình vui, buồn đều có thể chia sẻ với thầy cô, khích lệ mình
khi mình khó khăn trong gia đình, bế tắc trong học tập.
- Giáo dục từng bước, chậm
rãi từ những công việc nhỏ. Chẳng hạn phải thức sớm một chút để không phải đi
trễ, mình học yếu thì nên chịu khó, siêng làm bài tập hơn các bạn, khi nào làm
bài tập, học sinh mệt thì nên giải lao để tinh thần thoải mái rồi làm tiếp,
không nên cố gắng quá sức. Giáo viên không nên giáo dục ào ạt chưa hỏi han lý
do gì hết mà đã la mắng học sinh cho dù học sinh đó vi phạm nhẹ, như vậy sẽ mất
hiệu quả giáo dục. Bởi vì đấy là những học sinh cá biệt, tính tình ương ngạnh,
tâm lý bất cần, học hay không đối với bản thân học sinh không quan trọng mà học
sinh vào lớp là chỉ được "lãnh lương" hàng ngày, không phải làm những
việc nặng nhọc bằng tay chân ở nhà.
5/
Biết chấp nhận và yêu thương:
- Frank McCourt, một thầy giáo người Mỹ (được
phong tặng danh hiệu Nhà giáo của năm), trong hồi ức “Người thầy” đã kể: Trường
hướng nghiệp nơi thầy dạy được xem là “bãi rác” cho những học sinh không đủ
trình độ vào trường trung học bình thường. Ngày nhận lớp cũng là ngày thầy đứng
quan sát chúng quậy phá, la ó... đủ kiểu. Cao điểm là lấy bánh mì ném nhau và
một học sinh lên tiếng: “Để xem tay thầy giáo mới này sẽ làm gì?”.
- Frank McCourt nói ông cố
nghĩ về những kiến thức được học ở Trường ĐH Sư phạm New York để tìm cách đối phó. Tiếc là chỉ có
những triết lý giáo dục, các mệnh lệnh đạo đức và luân lý, mà không có cách
giải quyết tình huống... “ném bánh mì”. Cuối cùng, ông quyết định... ăn chiếc
bánh. Ông viết: “Đó là hành xử đầu tiên của tôi trong lớp. Cái miệng đầy bánh
của tôi thu hút sự chú ý của cả lớp. Chúng trố mắt nhìn tôi đầy nét thán
phục... Tôi nghĩ, tôi đã nắm được chúng trong tay...”.
6/
Giáo viên phải biết làm mới tiết dạy của mình:
- Giáo dục HSCB còn một yêu cầu quan trọng, thầy, cô phải
giỏi nghề. Thầy, cô luôn cải tiến, đổi mới phương pháp giảng dạy. Tiết sau
“mới” hơn tiết trước. Sau một tiết học, trò học được nhiều tri thức bổ ích tạo
nên sự đam mê học hỏi, khám phá tự tin, khẳng định mình.
- Thầy, cô biết “cuốn” học sinh vào trò chơi học tập, sẽ
“lấp” thời gian “chết”, trò không “nhàn cư…” nghịch, đánh cờ ca rô, nhắn tin…
ngay trong tiết học.
- Giáo viên cần hướng dẫn
cụ thể những việc mà học sinh hỏi, tránh để học sinh cảm thấy mình lạc lỏng,
cảm giác vì mình học dở nên không ai quan tâm, ai cũng khinh thường mình, không
ai thèm chơi, để ý đến mình.
- Giáo dục HSCB là một nghệ thuật, nghệ thuật dạy trẻ.
Thầy, cô đứng trên bục giảng phải đóng nhiều vai: Tác giả kịch bản, đạo diễn,
diễn viên, cả khán giả - tức học sinh ngồi nghe giảng trên lớp. Làm thầy, nhưng
phải hiểu trò đang nghĩ gì, làm gì trong giờ học. Bài giảng là một “món ăn”,
nếu nhàm chán, học trò sẽ bỏ ăn-bỏ học.
7/
Phải biết tác động vào động cơ học tập:
- Tác động
vào động cơ học tập để các em này thấy rõ tầm quan trọng của việc học. Có
thể đưa ra một số tranh ảnh về nạn thất học - chỉ mới mấy tuổi đầu không được
đến trường, phải làm những việc nặng nhọc của người lớn rồi lại bị bạn bè khinh
thường, xa lánh, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Ngược lại những em có học
thì làm việc thuận lợi dễ dàng, càng ngày càng tiến thân, bạn bè ngưỡng mộ phải
trầm trồ khen ngợi, cha mẹ được nở mày, nở mặt.
8/ Phối hợp chặt chẽ các lực lượng
giáo dục trong xã hội:
- Chúng ta cần biết sử dụng và phát huy
hợp lí giá trị, tác dụng của dư luận xã hội.
- Phát huy
vai trò của ban đại diện hội cha mẹ HS.
- Tổ chức
các buổi ngoại khóa, kết hợp với những người cao tuổi, có uy tín
trong làng xã, mời họ đến trường nói chuyện, nhờ họ tuyên truyền
giáo dục giúp nhà trường. - Thường xuyên thăm gia
đình HS để tìm hiểu hoàn cảnh, tạo sự gần gũi giữa giáo viên, HS
và PHHS. Không nên chỉ khi các em có khuyết điểm mới đến thăm gia
đình.
9/
Nhà trường tích cực đổi mới phương thức quản lí, hoạt động:
- Đẩy
mạnh và đổi mới các hoạt động tập thể, xây dựng môi trường thân
thiện, tu bổ khu vui chơi giải trí, thể thao.
- Tăng cường
đưa giáo dục pháp luật, giáo dục giới tính, giáo dục sức khỏe vị
thành niên, giáo dục kĩ năng sống vào nhà trường để các em có đủ
hành trang bước vào cuộc sống, không bị bỡ ngỡ, bất ngờ. Khi gặp
phải những tình huống bất ngờ các em biết bình tĩnh xử lí hiệu
quả nhất.
III. Kết luận
- Sáng kiến kinh nghiệm này giúp giáo viên hiểu rõ trong một tập
thể lớp học luôn tồn tại những học sinh dễ giáo dục và những học sinh khó giáo
dục, luôn xuất hiện những hành vi không mong đợi, hoặc những học sinh mà chúng
ta quen gọi đó là học sinh cá biệt. Bởi vậy, để những học sinh cá biệt trở
thành những học sinh ngoan, có ích cho xã hội là một trong những vấn đề quan
tâm hàng đầu của nhà trường, gia đình và xã hội. Đặc biệt qua nội dung tự bồi
dưỡng này giáo viên tích luỹ được kinh nghiệm và có phương pháp linh hoạt trong
giáo dục học sinh cá biệt. Giáo viên có thể tham khảo những cách thức giáo dục
học sinh cá biệt:
+ Giáo viên cần phải tiếp cận cá nhân và xây dựng quan hệ tin cậy,
tôn trọng, thân thiện với học sinh cá biệt.
+ Giúp học sinh biết nhận thức đúng về điểm mạnh và điểm yếu của
bản thân. + Giúp học sinh nhận thức được hậu quả của
những hành vi tiêu cực và tất yếu phải thay đổi thói quen, hành vi cũ.
+ Giáo viên cần phải quan tâm hỗ trợ vượt qua những khó khăn và
đáp ứng nhu cầu chính đáng của học sinh cá biệt.
+ Động viên, khích lệ, tạo động lực cho học sinh cá biệt tạo động
lực học tập và hoàn thiện nhân cách cho học sinh.
+ Tránh sử dụng củng cố tiêu cực.
+ Lập kế hoạch phát triển cá nhân, khơi dậy hoài bão và ý thức tự
giáo dục của học sinh.
+ Áp dụng mô hình thay đổi nhận thức, hành vi để cải thiện niềm
tin, suy nghĩ chưa hợp lý của học sinh cá biệt.
+ Áp dụng biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực đối với cả tập thể
lớp và học sinh cá biệt.
+ Thiết lập mối quan hệ thân thiện, gần gũi, chặt chẽ giữa giáo
viên với cha mẹ học sinh.
Từ đó, giáo viên nên phối hợp các cách thức đó như
thế nào để giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả nhất.
Người viết
Nguyễn Thị Kiều Diễm |